Tham dự hội thảo có ông Chang Nai Chieh - Tham tán, Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại Việt Nam; bà Emilee Anderson – Giám đốc Tổ chức Operation Smile khu vực Thái Lan – Myanmar – Việt Nam; cùng các đồng chí trong Ban Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam – Cu Ba; các báo cáo viên quốc tế đến từ Nhật Bản và Đài Loan; đại diện lãnh đạo một số bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế, Sở Y tế Hà Nội và các tỉnh, thành phố trong cả nước.
ThS.BS Nguyễn Mạnh Cường, Phó Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam – Cu Ba phát biểu khai mạc hội thảo.
Phát biểu khai mạc hội thảo, ThS.BS Nguyễn Mạnh Cường, Phó Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam – Cu Ba, cho biết: Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam – Cu Ba là bệnh viện đa khoa hạng II trực thuộc Sở Y tế Hà Nội, với thế mạnh nổi bật ở hai chuyên khoa đầu ngành: Răng Hàm Mặt và Tai Mũi Họng. Trong hơn 35 năm hình thành và phát triển, Bệnh viện đã đồng hành cùng Tổ chức Operation Smile, kiên trì mang lại nụ cười và hy vọng mới cho hàng ngàn bệnh nhân mắc dị tật khe hở môi - vòm miệng.
ThS.BS Nguyễn Mạnh Cường nhấn mạnh, với vai trò là một trong những đơn vị đi đầu trong điều trị toàn diện cho bệnh nhân khe hở môi - vòm miệng, cách đây hai năm, bệnh viện đã tổ chức thành công Hội thảo khoa học lần thứ nhất về lĩnh vực này. Hôm nay, bệnh viện tiếp tục tổ chức hội thảo khoa học thường niên lần thứ hai nhằm chia sẻ kinh nghiệm, cập nhật kiến thức chuyên môn, góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng điều trị cho bệnh nhân mắc dị tật khe hở môi - vòm miệng.
Các đại biểu tham dự hội thảo khoa học.
Dị tật khe hở môi – vòm miệng là một trong những dị tật bẩm sinh phổ biến, không chỉ ảnh hưởng đến chức năng ăn, nói mà còn đến thẩm mỹ, tâm lý và khả năng hòa nhập xã hội của người bệnh. Để đạt được hiệu quả điều trị tối ưu, cần có một cách tiếp cận toàn diện, đa chuyên khoa và liên tục từ thời điểm phát hiện dị tật cho đến tuổi trưởng thành. Quá trình điều trị bao gồm: tư vấn tiền sản, can thiệp sớm ngay sau sinh, phẫu thuật tạo hình, chỉnh nha, phục hồi chức năng phát âm và hỗ trợ tâm lý, góp phần mang lại cuộc sống bình thường và tương lai tươi sáng cho bệnh nhân.
Tại hội thảo, các nhà khoa học và chuyên gia quốc tế đã cùng nhau trao đổi, chia sẻ và cập nhật những kiến thức mới nhất trong lĩnh vực điều trị khe hở môi – vòm miệng. Đây cũng là dịp để tăng cường kết nối, xây dựng nền tảng cho những mối quan hệ hợp tác bền vững và hiệu quả giữa các bên trong thời gian tới.
Bác sĩ Jui-Pin Lai, Trưởng khoa Phẫy thuật thẩm mỹ, Bệnh viện Tưởng niệm Chang Gung Cao Hùng, Đài Loan chia sẻ: Mặc dù sứt môi, hở hàm ếch (CLP) không phải là một căn bệnh hay tình trạng bệnh lý mắc phải, nhưng hậu quả của dị tật này ảnh hưởng suốt đời, có thể không được chữa khỏi, gây ảnh hưởng đến chức năng, sự tự tin và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Tuy vậy, những ảnh hưởng của bệnh lý sẽ được cải thiện khi người bệnh được quan tâm với kế hoạch điều trị toàn diện. Mục tiêu chính của phẫu thuật ban đầu là phục hồi được chức năng bình thường, phát triển khả năng phát âm và thẩm mỹ khuôn mặt. Việc này giúp bệnh nhân hòa nhập với xã hội với trạng thái tinh thần ổn định.
TS.BS Nguyễn Khánh Long, Phó Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - Cu Ba tặng hoa và kỷ niệm chương cho các báo cáo viên tại hội thảo.
Chẩn đoán sớm và chính xác tình trạng bệnh lý của khe hở môi vòm của các bệnh nhân rất quan trọng để có kế hoạch điều trị toàn diện đúng đắn. Các chuyên viên chăm sóc điều trị ban đầu (PCP) và bác sĩ phẫu thuật khe hở môi vòm phải nhận thức được các vấn đề tiềm ẩn có thể phát sinh với CLP, cần nắm rõ các bước của quy trình điều trị toàn diện, cần chuyển đến các chuyên khoa điều trị phối hợp thích đáng và theo dõi bệnh liên tục.
Cũng tại hội thảo, bác sĩ Keisuke Imai, khoa Phẫu thuật tạo hình, Bệnh viện Dda khoa Thành phố Osaka, Đại học Y Nara, Nhật Bản chia sẻ, việc ghép xương xương ổ răng cho trường hợp khe hở xương ổ răng lớn và rộng là khó thực hiện. Chúng tôi đã cố gắng đóng khe hở cung răng và ghép xương ổ răng có kết hợp với thủ thuật từng bước kéo giãn xương.
Một bệnh nhân là bé gái 13 tuổi bị khe hở môi và hở vòm miệng toàn bộ trái. Bé đã được phẫu thuật môi và vòm miệng lần đầu mà không được làm Taping-NAM trước mổ. Suốt 6 năm sau đó, bệnh nhi không quay lại bệnh viện để kiểm tra định kỳ. Khi được tái khám lại lúc 7 tuổi, bé có khe hở cung răng rộng với lỗ thông mũi miệng đường kính 4mm. Bệnh nhân được chỉnh nha và lên kế hoạch ghép xương ổ răng sau khi chỉnh.
Các báo cáo viên chia sẻ tại hội thảo khoa học.
Tuy nhiên, khe hở cung răng rộng hầu như không thay đổi và việc ghép xương ổ răng cùng lúc với đóng lỗ thông thật sự khó khăn. Vì vậy, điều trị phẫu thuật được lên kế hoạch gồm ba giai đoạn: Thực hiện phẫu thuật cắt xương ổ răng, sau đó kéo dãn xương ổ răng từ từ để giảm độ rộng của khe hở xương ổ; Đóng khe hở xương ổ bằng vạt niêm mạc màng xương; Ghép xương ổ răng thực hiện 3 tháng sau mổ.
BSCKII Lê Trung Nghĩa, chuyên gia điều trị môi vòm toàn diện của OSV cho rằng, việc tạo hình nền mũi – niêm mạc nướu màng xương, khẩu cái trước trong phẫu thuật tạo hình môi thì đầu ở bệnh nhân khe hở môi vòm toàn bộ làm giảm số lần đóng lỗ thông mũi miệng, giúp đóng vòm miệng thì hai đẩy lùi khẩu cái mềm dễ dàng hơn, tạo mô che phủ sẵn sàng thuận lợi cho ghép xương ổ răng. Phẫu thuật này giúp trẻ tránh được những phiền toái do lỗ thông mũi miệng (ngẫu nhiên) từ 12 tháng tuổi đến khi được ghép xương ổ răng (7-11 tuổi), giảm chi phí y tế cho quá trình điều trị khe hở môi vòm miệng toàn bộ.
Thông qua hội thảo lần này, Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam – Cu Ba cùng các đơn vị trong và ngoài nước khẳng định cam kết tiếp tục nâng cao chất lượng điều trị cho bệnh nhân mắc dị tật khe hở môi – vòm miệng. Đây không chỉ là dịp để chia sẻ kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm điều trị mà còn mở ra nhiều cơ hội hợp tác quốc tế, hướng tới mục tiêu đem lại tương lai tốt đẹp và nụ cười trọn vẹn cho nhiều bệnh nhân hơn nữa.
Duy Tuân